Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Lý do 29: "Để Giải Phóng Chúng Ta Ra Khỏi Tình Trạng Nô Lệ Cho Tội Lỗi"



50 Lý Do Chúa Jêsus Đến Chịu Chết
Để Giải Phóng Chúng Ta
Ra Khỏi Tình Trạng Nô Lệ Cho Tội Lỗi

            “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha Ngài, đáng được sự vinh hiển và quyền năng đời đời vô cùng! (Khải huyền 1:5-6).
            “Ấy vì đó mà chính mình Đức Chúa Jêsus đã chịu khổ tại ngoài cửa thành để lấy huyết mình làm cho dân nên thánh (Hêbơrơ 13:12).

            Tội lỗi chúng ta hủy hoại chúng ta theo hai cách. Nó khiến cho chúng ta phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời, để chúng ta phải chịu sự phán xét công bình của Ngài; và nó khiến cho chúng ta ra xấu xí trong cách ăn ở của chúng ta, để chúng ta không còn mang lấy ảnh tượng của Đức Chúa Trời mà chúng ta có ý muốn bày tỏ ra. Nó cáo trách chúng ta với tội lỗi, và nó bắt chúng ta làm nô lệ cho tình trạng không còn biết đến thương cảm nữa.
            Huyết của Chúa Jêsus giải phóng chúng ta ra khỏi hai phần đau khổ đó. Huyết ấy làm thỏa mãn sự công bình của Đức Chúa Trời hầu cho tội lỗi của chúng ta sẽ được buông tha. Và huyết ấy đánh bại quyền lực của tội lỗi bắt chúng ta phải làm nô lệ cho tình trạng không biết đến thương cảm. Chúng ta đã nhìn thấy thể nào Đấng Christ tiếp lấy cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời rồi cất bỏ tội lỗi chúng ta đi. Nhưng giờ đây huyết của Đấng Christ giải phóng chúng ta ra khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi bằng cách nào?
            Câu trả lời không phải Ngài là tấm gương mạnh mẽ cho chúng ta và cảm thúc chúng ta tự buông tha mình ra khỏi tình trạng ích kỷ. Ổ, phải đấy, Chúa Jêsus là một tấm gương cho chúng ta. Và là một tấm gương rất mạnh mẽ. Ngài bảo chúng ta hãy bắt chước Ngài: Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy (Giăng 13:34). Nhưng lời kêu gọi bắt chước đó không phải là sức mạnh của sự tự do. Có một việc sâu sắc hơn.
            Tội lỗi là một ảnh hưởng rất mạnh như thế trong đời sống chúng ta đến nỗi chúng ta phải được giải phóng bằng quyền phép của Đức Chúa Trời, chớ không phải bởi sức mạnh của ý chí chúng ta đâu. Nhưng kể từ khi chúng ta là hạng tội nhân, chúng ta phải thắc mắc: Có phải quyền phép của Đức Chúa Trời nhắm thẳng vào sự giải phóng hay sự phán xét chúng ta? Đấy là chỗ sự thương khó của Đấng Christ bước vào. Khi Đấng Christ chịu chết để cất bỏ sự xét đoán chúng ta, Ngài đã mở cái van thương xót ở trên trời để đổ ra vì ích cho công cuộc giải phóng chúng ta ra khỏi quyền lực của tội lỗi. Nói khác đi, giải cứu ra khỏi tội lỗi và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời phải đi trước sự giải cứu ra khỏi quyền lực của tội lỗi bằng sự thương xót  của Đức Chúa Trời. Lời lẽ của Kinh thánh khi nói tới vấn đề nầy là: Sự xưng công bình đi trước và bảo đảm sự nên thánh. Chúng rất khác biệt. Một cái là lời tuyên bố ngay lập tức (không có tội!); còn cái kia là sự biến đổi liên tục.
            Bây giờ, đối với người nào đang tin cậy Đấng Christ, quyền phép của Đức Chúa Trời không ở trong chỗ phục vụ cho cơn thạnh nộ phán xét của Ngài, mà ở trong chỗ thương xót có tính cách giải phóng của Ngài. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta quyền phép làm thay đổi nầy qua Thân vị của Thánh Linh Ngài. Đấy là lý do tại sao vẻ đẹp của “lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ” được gọi là “trái của Thánh Linh” (Galati 5:22-23). Đây là lý do tại sao Kinh thánh có thể đưa ra lời hứa đáng kinh ngạc: Vì tội lỗi không cai trị trên anh em đâu; bởi anh em chẳng thuộc dưới luật pháp, mà thuộc dưới ân điển (Rôma 6:14). Thuộc “dưới ân điển” bảo đảm quyền phép toàn năng của Đức Chúa Trời hủy diệt tình trạng chẳng biết đến thương cảm của chúng ta (không phải một lần đủ cả, mà là tiệm tiến). Chúng ta không thụ động trong việc đánh bại thái độ ích kỷ của chúng ta, mà chúng ta cũng không bày ra quyền phép có tính quyết định được. Đây là ân điển của Đức Chúa Trời. Vì vậy, vị sứ đồ lỗi lạc Phaolô đã nói: “Tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi (I Côrinhtô 15:10). Nguyện Đức Chúa Trời của mọi ơn, bởi đức tin nơi Đấng Christ, giải phóng chúng ta ra khỏi cả tội lỗi và tình trạng làm nô lệ cho tội lỗi nữa.




Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Lý do 28: "Giải Phóng Chúng Ta Ra Khỏi Cách Ăn Ở Không Ra Chi Của Tổ Tiên Chúng Ta"


50 Lý Do Chúa Jêsus Đến Chịu Chết
Giải Phóng Chúng Ta Ra Khỏi Các Ăn Ở Không Ra Chi
Của Tổ Tiên Chúng Ta
            vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của chiên con không lỗi không vít ( I Phierơ 1:18-19).
            Người đời ở phương Tây, và nhiều dân tộc trong các bộ lạc sống theo kiểu duy linh, họ có chung vấn đề nầy đây: Họ tin nơi quyền phép cách ăn ở không ra chi của tổ tiên họ. Họ gọi quyền phép ấy bằng những danh xưng khác nhau. Hạng người duy linh có thể trao đổi với linh hồn của tổ tiên và chuyển tải các lời nguyền. Hạng người thế tục có thể nói tới ảnh hưởng của di truyền hay thương tổn của bậc làm cha làm mẹ bị ngược đãi, và xa rời về tình cảm. Trong cả hai trường hợp, có một ý thức về số phận mà chúng ta buộc phải sống với lời nguyền hay những tổn thương từ tổ tiên chúng ta. Tương lai dường như hư không và chẳng thấy bóng hạnh phúc.
            Khi Kinh thánh chép: “anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên mình”, Kinh thánh đang đề cập tới một phương thức sống trống rỗng, vô nghĩa, không ích lợi, nó kết thúc với sự hủy diệt. Kinh thánh nói rằng “những sự ăn ở không ra chi” nầy được gắn cho các tổ phụ chúng ta. Kinh thánh không nói bằng cách nào!?! Việc cụ thể là hãy chú ý cách chúng ta được giải phóng ra khỏi sự ăn ở không ra chi nầy. Quyền phép của nhà giải phóng xác định phạm trù của công cuộc giải phóng.
            Sự giải phóng ra khỏi cách ăn ở không ra chi của tổ tiên xảy ra “chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng”. Bạc và vàng tiêu biểu cho những thứ có giá trị nhất có thể dùng để trả giá cho sự cứu chuộc. Nhưng hết thảy chúng ta đều biết chúng là vô dụng rồi. Hạng người giàu có nhất thường là kẻ bị bắt làm nô lệ cho cách ăn ở không ra chi nầy. Một tù trưởng bộ lạc giàu có có thể bị hành hại bởi nổi lo sợ bùa chú của tổ tiên giáng trên đời sống của ông ta. Một vị Chủ tịch của công ty rất thành công có thể bị lèo lái bởi những thế lực vô thức từ lai lịch của ông ta, nó phá hủy cuộc hôn nhân và con cái của ông ta.
            Bạc và vàng chẳng có quyền gì để cứu hết. Sự thương khó và sự chết của Chúa Jêsus cung ứng những gì là cần thiết: không phải vàng hay bạc mà là “bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết Chiên Con không lỗi không vít”. Khi Đấng Christ chịu chết, Đức Chúa Trời đã có một nhận định về mối quan hệ giữa chúng ta và tổ tiên của chúng ta. Ngài muốn giải phóng chúng ta ra khỏi cách ăn ở không ra chi mà chúng ta thừa hưởng từ nơi họ. Đấy là một trong những lý do mà Đấng Christ đã chịu chết.
            Không một bùa chú nào có thể đứng nghịch lại bạn được, nếu mọi tội lỗi của bạn hết thảy đều đã được tha, và bạn được mặc cho sự công bình của Đấng Christ, và bạn được chuộc và được yêu thương bởi Đấng Sáng Tạo ra vũ trụ. Sự thương khó và sự chết của Chúa Jêsus là lý do sau cùng tại sao Kinh thánh nói dân sự của Đức Chúa Trời: “không có phù chú nơi Gia-cốp, cũng chẳng có bói-khoa trong Y-sơ-ra-ên (Dân số ký 23:23). Khi Chúa Jêsus chịu chết, mọi ơn phước của thiên đàng đã được mua cho những ai chịu tin cậy Ngài. Và khi Đức Chúa Trời chúc phước, không ai có thể rủa sả được.
            Không một tổn thương nào mà cha mẹ bị trù ẻo trổi hơn sự chữa lành của Chúa Jêsus. Giá chữa lành được gọi là “huyết báu Đấng Christ”. Từ ngữ “báu” có nghĩa là “giá trị vô hạn”. Vì vậy giá chuộc đang trải ra một cách vô hạn. Không một vòng nô lệ nào có thể đứng nghịch lại nó được. Vì vậy, chúng ta hãy xây khỏi vàng và bạc mà hãy vòng tay ôm lấy sự ban cho của Đức Chúa Trời.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Lý do 27: "Để Trở Thành Thầy Tế Lễ Biết Cảm Thương Và Giúp Đỡ"


50 Lý Do Chúa Jêsus Đến Chịu Chết
Để Trở Thành Thầy Tế Lễ
Biết Cảm Thương Và Giúp Đỡ
            “Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hêbơrơ 4:15-16).
            Đấng Christ đã trở thành Thầy Tế Lễ của chúng ta bằng cách tự hy sinh trên thập tự giá (Hêbơrơ 9:26). Ngài là Đấng Trung Bảo của chúng ta với Đức Chúa Trời. Sự vâng phục và sự thương khó của Ngài vốn trọn vẹn đến nỗi Đức Chúa Trời không thể ngoảnh mặt đối với Ngài. Vì vậy, nếu chúng ta đến với Đức Chúa Trời qua Ngài, Đức Chúa Trời cũng sẽ không ngoảnh mặt đối với chúng ta đâu.
            Nhưng sự việc còn hơn thế nữa. Trên đường đến với thập tự giá trong ba mươi năm trời, Đấng Christ bị cám dỗ như bao người khác bị cám dỗ. Thực vậy, Ngài không hề phạm tội. Nhưng hạng người khôn ngoan đã cho thấy rằng điều nầy có ý nói sự cám dỗ của Ngài còn mạnh bạo hơn sự cám dỗ của chúng ta, chớ không kém hơn đâu. Nếu một người nhượng bộ trong sự cám dỗ, sự cám dỗ ấy không hề đạt tới mức xung kích đầy đủ và lâu dài nhất. Chúng ta đầu hàng đang khi áp lực vẫn còn đang áp đảo. Song Chúa Jêsus không bao giờ nhượng bộ. Vì thế, Ngài đã gánh chịu trọn áp lực cho đến cuối cùng và không chịu đầu hàng. Ngài biết rõ bị cám dỗ với sức áp đảo trọn vẹn nhất là như thế nào rồi.
            Thời điểm cám dỗ lên tới cao điểm ở chỗ bị lìa bỏ và ngược đãi cực kỳ khiến cho Chúa Jêsus có khả năng tuyệt vời để cảm thương hạng người bị cám dỗ và đau khổ. Không một ai từng chịu đau khổ hơn thế. Không một người nào từng chịu đựng nhiều ngược đãi hơn. Và không có ai đáng phải chịu như thế và có quyền đánh trả lại. Nhưng sứ đồ Phierơ đã nói:Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá; Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề hăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình (I Phierơ 2:22-23).
            Vì lẽ đó, Kinh thánh chép Ngài có khả năng “cảm thương sự yếu đuối chúng ta” (Hêbơrơ 4:15). Điều nầy thật đáng ngạc nhiên. Con phục sinh của Đức Chúa Trời ở trên trời ngồi bên tay hữu Đức Chúa Trời với mọi quyền bính trên vũ trụ cảm nhận những gì chúng ta cảm nhận khi chúng ta đến với Ngài trong chỗ buồn rầu hay đau khổ — hoặc bị dồn vào đường cùng với những lời hứa của khoái lạc tội lỗi.
            Điều nầy tạo nên sự khác biệt gì chứ? Kinh thánh trả lời bằng cách lập ra một sự kết nối giữa sự đồng cảm của Chúa Jêsus và sự vững lòng của chúng ta nơi sự cầu nguyện. Kinh thánh chép rằng một khi Ngài có khả năng “cảm thương sự yếu đuối chúng ta . . . [vì vậy chúng ta sẽ] vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót  và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hêbơrơ 4:15-16).
            Rõ ràng, tư tưởng sẽ là như thế nầy đây: Chúng ta cảm nhận là không được hoan nghênh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời một khi chúng ta phấn đấu mà đến. Chúng ta cảm nhận sự thanh sạch và trọn lành của Đức Chúa Trời một cách kỉnh kiền đến nỗi mọi sự về chúng ta dường như không thích ứng trong sự hiện diện của Ngài. Thế rồi chúng ta nhớ lại rằng Chúa Jêsus biết “cảm thương”. Ngài đồng cảm với chúng ta, chớ không phải nghịch cùng chúng ta. Sự hiểu biết như thế nầy về sự cảm thông của Đấng Christ khiến cho chúng ta dạn dĩ mà đến. Ngài biết rõ tiếng kêu cầu của chúng ta. Ngài đã nếm trải nỗi vật vã của chúng ta. Ngài khiến chúng ta đến với sự vững lòng khi chúng ta cảm thấy có nhu cần. Vì vậy, chúng ta hãy nhớ tới bài hát xưa của John Newton:

Ngươi đang đến với Nhà Vua
Mang theo nhiều lời khẫn cầu
Vì cớ ân điển và quyền phép cả thể của Ngài
Nên chẳng một lời cầu xin nào là quá to tát cả!

Lý do 26: "Đưa Chức Vụ Tế Lễ Trong Cựu Ước Đến Chỗ Kết Thúc Rồi Trở Thành Thầy Tế Lễ Đời Đời"


50 Lý Do Chúa Jêsus Đến Chịu Chết
Đưa Chức Vụ Tế Lễ Trong Cựu Ước Đến Chỗ Kết Thúc Rồi Trở Thành Thầy Tế Lễ Đời Đời
            “Vả lại, số thầy tế lễ rất nhiều, vì sự chết nên không giữ luôn được chức vụ. Nhưng Ngài, vì hằng có đời đời, nên giữ lấy chức tế lễ không hề đổi thay. Bởi đó Ngài có thể cứu toàn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho những kẻ ấy. Ấy đó thật là thầy tế lễ thượng phẩm mà chúng ta có cần dùng, thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội, được cất lên cao hơn các từng trời: không như những thầy tế lễ thượng phẩm khác, cần phải hằng ngày dâng tế lễ, trước vì tội mình, sau vì tội dân; Ngài làm việc đó một lần thì đủ cả, mà dâng chính mình Ngài làm tế lễ” (Hêbơrơ 7:23-27).
            “Vả Đấng Christ chẳng phải vào nơi thánh bởi tay người làm ra, theo kiểu mẫu nơi thánh thật, bèn là vào chính trong trời, để bây giờ vì chúng ta hiện ra trước mặt Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải là dâng chính mình Ngài nhiều lần, như thầy tế lễ thượng phẩm mỗi năm vào trong nơi rất thánh mà dâng huyết không phải là huyết mình; bằng chẳng vậy, thì từ buổi sáng thế đến nay, Ngài đã phải chịu khổ nhiều lần rồi. Nhưng hiện nay đến cuối cùng các thời đại, Ngài đã hiện ra chỉ một lần, dâng mình làm tế lễ để cất tội lỗi đi” (Hêbơrơ 9:24-26).
            “Phàm thầy tế lễ mỗi ngày đứng hầu việc và năng dâng của lễ đồng một thức, là của lễ không bao giờ cất tội lỗi được, còn như Đấng nầy, đã vì tội lỗi dâng chỉ một của lễ, rồi ngồi đời đời bên hữu Đức Chúa Trời” (Hêbơrơ 10:11-12).

            Một trong những thuật ngữ quan trọng nhất của lẽ thật Cơ đốc là “một lần đủ cả”. Thuật ngữ nầy đến từ một chữ Hylạp (ephapax) và có ý nói “một lần trong mọi thời đại”. Từ nầy ý nói tới một việc đã xảy ra vốn có tính quyết định. Hành động đã hoàn tất đủ đến nỗi nó không bao giờ cần được lặp lại. Bất kỳ nổ lực nào muốn lặp lại hành động ấy sẽ làm mất uy tín sự thành tựu đã xảy ra “một lần đủ cả”.
            Đúng là một thực tại ảm đạm, hết năm nầy sang năm khác, các thầy tế lễ trong xứ Israel phải dâng con sinh vì tội lỗi của chính họ và tội lỗi của dân sự. Tôi không có ý nói là chẳng có ơn tha thứ đâu. Đức Chúa Trời đã ấn định các thứ của lễ nầy để làm sự khuây khoả cho dân sự của Ngài. Họ đã phạm tội và cần một sự thay thế để mang lấy hình phạt của họ. Chính ở chỗ có lòng thương xót mà Đức Chúa Trời đã chấp nhập chức vụ của các thầy tế lễ hay phạm tội và con sinh thay thế.
            Nhưng có mặt tối về sự việc nầy. Con sinh phải dâng lên hoài. Kinh thánh chép: Trái lại, những tế lễ đó chẳng qua là mỗi năm nhắc cho nhớ lại tội lỗi (Hêbơrơ 10:3). Dân sự vốn biết rõ khi họ đặt tay mình lên đầu của con bò đực để chuyển tải tội lỗi mình sang con thú, việc ấy rồi sẽ lại được làm nữa. Không có đủ loài thú để gánh thay tội lỗi của con người. Các thầy tế lễ hay phạm tội phải dâng của lễ vì chính tội lỗi của họ. Các thầy tế lễ hay chết phải bị thay thế. Bò đực và dê đực không có đời sống đạo đức và không thể mang lấy lỗi lầm của con người. Vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được (Hêbơrơ 10:4).
            Nhưng đã có lớp vải bạc bao quanh đám mây bất toàn của chức tế lễ nầy. Nếu Đức Chúa Trời tôn vinh các thứ bất toàn nầy, điều nầy có ý nói rằng một ngày kia Ngài sẽ sai một tôi tớ xứng đáng đến hoàn tất những gì dòng thầy tế lễ nầy không thể làm được — ấy là cất bỏ tội lỗi đi một lần đủ cả.
            Điều đó cho thấy Đức Chúa Jêsus Christ là ai. Ngài đã trở thành Thầy Tế Lễ sau cùng và là Con Sinh sau cùng. Vô tội, Ngài không dâng các thứ con sinh cho chính mình. Bất tử, Ngài không bao giờ bị thay thế. Là Con Người, Ngài có thể gánh lấy tội lỗi của con người. Vì lẽ đó, Ngài không dâng của lễ cho chính mình Ngài; Ngài đã dâng chính mình Ngài làm của lễ tối hậu. Sẽ chẳng còn cần đến của lễ nào khác nữa. Có một Đấng Trung Bảo đứng giữa chúng ta và Đức Chúa Trời. Một Thầy Tế Lễ. Chúng ta không còn cần ai khác nữa. Ồ, phước hạnh dường bao cho những ai nhờ chỉ một mình Đấng Christ mà đến gần Đức Chúa Trời.





Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Lý do 25: "Để Trở Thành Nơi Mà Ở Đó Chúng Ta Gặp Gỡ Đức Chúa Trời"


50 lý do tại sao Chúa Jêsus đến và chịu chết
Để Trở Thành Nơi Mà Ở Đó 
Chúng Ta Gặp Gỡ Đức Chúa Trời
          “Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy phá đền thờ nầy đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại! Người Giu-đa lại nói: Người ta xây đền thờ nầy mất bốn mươi sáu năm, mà thầy thì sẽ dựng lại trong ba ngày! Nhưng Ngài nói về đền thờ của thân thể mình ( Giăng 2:19-21).
            “Giết Ta, thì Ta sẽ trở thành nơi nhóm lại toàn cầu với Đức Chúa Trời”, đấy là cách mà tôi muốn đóng ngoặc kép Giăng 2:19-21. Họ tưởng Chúa Jêsus đang đề cập tới Đền Thờ tại thành Jerusalem: “Hãy phá đền thờ nầy đi, trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Nhưng Ngài đang đề cập tới thân thể của Ngài.
            Tại sao Chúa Jêsus lại đưa ra sự kết nối giữa đền thờ của người Do thái và chính thân thể của Ngài? Vì Ngài đã đến để lấy vị trí đền thờ làm nơi nhóm lại với Đức Chúa Trời. Với sự đến của Con Đức Chúa Trời trong xác thịt con người, nghi thức và sự thờ lạy sẽ phải đổi thay. Chính mình Đấng Christ sẽ trở thành Chiên Con Lễ Vượt Qua sau cùng, thầy tế lễ sau cùng, đền thờ sau cùng. Hết thảy mọi sự sẽ qua đi, và Ngài còn lại.
            Những gì còn lại sẽ là tốt hơn theo cách vô hạn. Khi đề cập đến chính mình Ngài, Chúa Jêsus phán: “Vả lại, ta phán cùng các ngươi, tại chỗ nầy có một đấng tôn trọng hơn đền thờ” (Mathiơ 12:6). Đền thờ trở thành nơi ngự của Đức Chúa Trời vào những thời điểm hiếm hoi, khi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy nơi thánh. Nhưng về Đấng Christ, Kinh thánh chép: “Vì sự đầy dẫy của bản tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình” (Côlôse 2:9). Sự hiện diện của Đức Chúa Trời không xảy đến và đang ở trên Chúa Jêsus. Ngài là Đức Chúa Trời. Nơi chúng ta gặp Ngài, chúng ta đang gặp Đức Chúa Trời.
            Đức Chúa Trời gặp gỡ dân sự trong đền thờ qua nhiều đấng trung bảo bất toàn về mặt con người. Nhưng giờ đây, Kinh thánh nói tới Đấng Christ: “Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người” (I Timôthê 2:5). Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng, chỉ có một chỗ mà chúng ta phải đi đến, đó là Đức Chúa Jêsus Christ. Cơ đốc giáo không có một trung tâm nào về mặt địa lý giống như Hồi giáo và Do thái giáo.
            Có lần, khi Chúa Jêsus đối diện với một người đàn bà với tội tà dâm, bà ta đã thay đổi đề tài rồi nói: “Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, … giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem”. Địa lý không phải là vấn đề. Vậy thì là gì? Chúa Jêsus phán tiếp: “Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha” (Giăng 4:20-23).
            Chúa Jêsus thay đổi hoàn toàn phạm trù. Không phải trên hòn núi nầy hay trong thành phố kia đâu, mà là bằng tâm thần và lẽ thật. Ngài đã vào trong thế gian để loại bỏ giới hạn về mặt địa lý. Giờ đây chẳng còn có đền thờ nào nữa. Jerusalem không phải là trung tâm. Đấng Christ mới là trung tâm. Bạn có muốn gặp Đức Chúa Trời không? Chúa Jêsus phán: “Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha” (Giăng 14:9). Bạn có muốn tiếp nhận Đức Chúa Trời không? Chúa Jêsus phán: “ai rước ta, tức là rước Đấng đã sai ta” (Mathiơ 10:40). Bạn có muốn có sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng không? Kinh thánh chép: “Ai chối Con, thì cũng không có Cha” (I Giăng 2:23). Có phải chúng ta muốn tôn vinh Đức Chúa Cha không? Chúa Jêsus phán: “Ai không tôn kính Con, ấy là không tôn kính Cha, là Đấng đã sai Con đến” (Giăng 5:23).
            Khi Đấng Christ chịu chết và đã sống lại, đền thờ cũ bị thay thế bởi Đấng Christ mà cả toàn cầu có thể tiếp cận được. Bạn có thể đến với Ngài mà chẳng cần phải vận dụng cơ bắp. Ngài đang ở gần giống như đức tin vậy.

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Lý do 24: "Để Ban Cho Chúng Ta Được Dạn Dĩ Vào Nới Rất Thánh"


50 lý do tại sao Chúa Jêsus đến và chịu chết
Để Ban Cho Chúng Ta Được Dạn Dĩ 
Vào Nơi Rất Thánh
Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh (Hêbơrơ 10:19).
            Một trong những lẽ mầu nhiệm long trọng trong Cựu Ước là ý nghĩa của căn lều dùng để thờ phượng mà dân Isarel sử dụng được gọi là “đền tạm”. Lẽ mầu nhiệm được gợi ý song không rõ ràng đâu. Khi dân Israel ra khỏi Aicập rồi đến tại Núi Sinai, Đức Chúa Trời đã ban các huấn thị chi tiết cho Môise về cách thức xây dựng đền tạm nầy dùng để thờ phượng với các thiết bị bày biện trong đó. Lẽ mầu nhiệm nói về đền ấy chính là mạng lịnh nầy: Vậy, ngươi hãy xem, cứ làm y như kiểu đã chỉ cho trên núi (Xuất Êdíptô ký 25:40).
            Khi Đấng Christ vào trong thế gian 1.400 năm sau đó, “khuôn mẫu” về đền tạm xa xưa nầy được tỏ ra đầy đủ hơn trong “hình” hay “bóng” của những thực tại trên thiên đàng. Đền tạm là hình bóng thuộc về đất nói tới một thực tại thuộc về trời. Vì vậy trong Tân Ước chúng ta đọc như vầy: và giữ sự thờ phượng, sự thờ phượng đó chẳng qua là hình và bóng của những sự trên trời mà thôi, cũng như khi Môi-se gần dựng đền tạm, thì Đức Chúa Trời phán bảo rằng: Hãy cẩn thận, làm mọi việc theo như kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi (Hêbơrơ 8:5).
            Cho nên tất cả những cách thể hiện sự thờ phượng của Israel trong Cựu Ước chỉ ra một việc rất thực hơn. Giống như có những căn phòng thánh trong đền tạm, ở đó các thầy tế lễ thường hay dùng huyết của con sinh và gặp gỡ Đức Chúa Trời, thì cũng vậy, có “những nơi thánh” siêu việt hơn ở trên trời, ở đó Đấng Christ bước vào với chính huyết của Ngài một lần đủ cả không phải lặp đi lặp lại nữa.
            Nhưng Đấng Christ đã hiện đến, làm thầy tế lễ thượng phẩm … Ngài đã vượt qua đền tạm lớn hơn và trọn vẹn hơn, không phải tay người dựng ra, nghĩa là không thuộc về đời nầy; Ngài đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời” (Hêbơrơ 9:11-12).
            Câu nầy hàm ý nói cho chúng ta biết rằng giờ đây con đường đã mở ra cho chúng ta cùng với Đấng Christ bước vào nơi rất thánh trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Trước kia chỉ có các thầy tế lễ người Do thái mới có thể bước vào “hình” “bóng” của những nơi nầy. Chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm mới có thể vào trong nơi chí thánh mỗi năm một lần, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời hiện ra ở đó (Hêbơrơ 9:7). Còn có bức màn ngăn cản bảo vệ nơi vinh hiển ấy nữa. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng khi Đấng Christ trút hơi thở sau cùng trên thập tự giá: Và nầy, cái màn trong đền thờ, bị xé ra làm hai từ trên chí dưới, đất thì rúng động, đá lớn bể ra (Mathiơ 27:51).
            Điều nầy có ý nói tới việc gì chứ? Phần giải thích được cung ứng qua lời lẽ nầy: Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài (Hêbơrơ 10:19-20). Nếu không có Đấng Christ, sự thánh khiết của Đức Chúa Trời cần phải được giữ ngăn cách chúng ta. Ngài không được tôn cao, và chúng ta sẽ bị thiêu đốt vì cớ tội lỗi của chúng ta. Còn bây giờ, vì cớ Đấng Christ, chúng ta có thể đến gần và trang sức tấm lòng mình với vẻ đẹp sáng láng đầy dẫy sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Ngài đáng được tôn cao. Chúng ta sẽ không bị thiêu đốt. Vì cớ Đấng Christ bảo hộ mọi sự, Đức Chúa Trời sẽ được tôn vinh, và chúng ta sẽ đứng trong sự kính sợ đời đời. Vì vậy, hãy đến, đừng sợ. Song hãy nhờ Đấng Christ mà đến.

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Lý do 23: "Để Chúng Ta Thuộc Về Ngài"


50 lý do tại sao Chúa Jêsus đến và chịu chết
“Để Chúng Ta Thuộc Về Ngài”
            “Hỡi anh em ta, anh em cũng như vậy, bởi thân thể của Đấng Christ, anh em đã chết về luật pháp, đặng thuộc về người khác, tức là người đã từ kẻ chết sống lại, hầu cho chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời (Rôma 7:4).
            “Anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi” (I Côrinhtô 6:19-20).
            “để chăn Hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình (Công Vụ các Sứ Đồ 20:28).

            Câu hỏi tối hậu không phải bạn là ai mà là bạn thuộc về ai kìa. Tất nhiên, có nhiều người nghĩ họ chẳng là nô lệ của ai cả. Họ mơ đến sự độc lập hoàn toàn. Giống như con sứa được thủy triều mang tới, nó cảm thấy mình được tự do vì nó không như loài hàu bị gắn chặt vào một nơi.
            Nhưng Chúa Jêsus có một lời cho những ai suy nghĩ theo cách ấy. Ngài phán: các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi. Nhưng họ đáp:Chúng tôi … chưa hề làm tôi mọi ai, vậy sao thầy nói rằng: Các ngươi sẽ trở nên tự do?” Vì vậy Chúa Jêsus đáp: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi (Giăng 8:32-34).
            Kinh thánh không đưa ra một thực tại nào với loài người sa ngã, họ là hạng người chuyên tự quyết định. Chẳng có một sự tự chủ nào trong thế giới sa ngã cả. Chúng ta bị tội lỗi cai quản hoặc Đức Chúa Trời cai quản. Anh em há chẳng biết rằng nếu anh em đã nộp mình làm tôi mọi đặng vâng phục kẻ nào. . . . Vả, khi anh em còn làm tôi mọi tội lỗi, thì đối với sự công bình anh em được tự do. . . . Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi (Rôma 6:16, 20, 22).
            Phần lớn thời gian chúng ta được tự do làm những điều chúng ta mong muốn. Nhưng chúng ta không được tự do muốn những gì chúng ta muốn. Vì nếu như thế, chúng ta cần đến một quyền phép mới dựa theo giá mua thiêng liêng. Quyền phép là quyền phép của Đức Chúa Trời. Đấy là lý do tại sao Kinh thánh chép: Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sau khi anh em làm tôi mọi tội lỗi, thì đã từ lòng vâng phục đạo lý là sự đã ban làm mực thước cho mình! (Rôma 6:17). Đức Chúa Trời là Đấng có thểban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật,  và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó (II Timôthê 2:25-26).
            Và giá mua phóng ra quyền phép nầy là sự chết của Đấng Christ. “Anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi (I Côrinhtô 6:19-20). Và đâu là cái giá mà Đấng Christ đã trả cho những kẻ tin cậy Ngài? “Ngài đã mua [họ] bằng chính huyết mình” (Công Vụ các Sứ Đồ 20:28).
            Giờ đây, quả thực chúng ta đã được giải phóng. Không phải là tự mình sống đâu, mà là mong muốn những điều chi là tốt lành kìa. Một phương thức sống mới hoàn toàn đang mở ra cho chúng ta khi sự chết của Đấng Christ trở thành sự chết của bản ngã cũ của chúng ta. Mối quan hệ với Đấng Christ hằng sống thay thế mọi luật lệ. Và sự sống kết quả trong tự do thay thế cho sự làm nô lệ cho luật pháp. Hỡi anh em ta, anh em cũng như vậy, bởi thân thể của Đấng Christ, anh em đã chết về luật pháp, đặng thuộc về người khác, tức là người đã từ kẻ chết sống lại, hầu cho chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời (Rôma 7:4).
            Đấng Christ đã chịu thương khó và chịu chết để chúng ta được buông tha ra khỏi luật pháp và sự tội rồi thuộc về Ngài. Đây là chỗ sự vâng phục thôi không còn là một gánh nặng và trở thành sự sống kết quả trong tự do. Hãy nhớ, bạn không thuộc về chính  mình nữa. Bạn sẽ thuộc về ai đây? Nếu thuộc về Đấng Christ, thế thì hãy đến mà thuộc về.